yes88 Game Bài

Hiện trạng sản xuất nhuyễn thể ở Việt Nam: Tiềm năng lớn, thách thức không nhỏ

(1xycn3.com) Nhuyễn thể – nhóm động vật thủy sinh không xương sống như nghêu, sò, ốc, hàu, bào ngư,... là một trong những ngành nuôi trồng thủy sản giàu tiềm năng và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế biển của Việt Nam. Với những điều kiện tự nhiên lý tưởng cùng sự tăng trưởng tích cực về sản lượng và kim ngạch XK, ngành nuôi nhuyễn thể đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, để phát triển bền vững và hiệu quả, vẫn còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ.

Chú thích ảnh

Điều kiện tự nhiên thuận lợi – nền tảng cho ngành nhuyễn thể

Việt Na꧒m sở hữu trên 3.260 km đường bờ biển, hơn 112 cửa sông, 660.000 ha bãi triều, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km². Nhiều vịn🍌h kín gió, đầm phá, thềm đáy đa dạng và khí hậu nhiệt đới tạo ra một hệ sinh thái biển phong phú, lý tưởng cho phát triển nuôi nhuyễn thể.

Năm 2024, tổng diện tích nuôi nhuyễn thể đạt 57.000 ha, tăng 5,5% so với năm 2022 và chiếm đến 9𒈔0% diện tích nuôi biển. Sản lượng đạt 432.000 tấn – tương đương 56% tổng sản lượng nuôi biển – cho thấy vai trò ngày càng lớn của nhóm đối tượng này. Kim ngạch XK ước đạt 200 triệu USD trong năm 2024, tăng đến 70% so với năm 2023, phản ánh nhu cầu thị trường cao và tiềm năng phát triển mạnh mẽ.

Sản xuất giống: Cần một cuộc cách mạng về chất lượng

Hiện cả nước có 635 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống nhuyễn thể, nhưng chỉ khoảng 23% trong số đó được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện. Mặc dù đã thành công trong sản xuất giống nhân tạo một số loài như nghêu, hàu, bào ngư, sò huyết, tu hài, điệp quạt…, song nguồn giống vẫn phần lớn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên – đặc biệt là giống nghêu ở Bến Tre và Tiền Giang. Chất lượng giống đang là vấn đề đáng lo ngại. Giống từ tự nhiên có dấu hiệu thoái hóa, sinh trưởng chậm, gây ảnh hưởng đến năng suất nuôi. Trong khi đó, công nghệ sản xuất giống dù được chuyển giao và ứng dụng ở một số địa phương nhưng chưa đồng bộ, quy mô nhỏ, chưa tạo được hệ sinh thái giống ổn định và chuyên nghiệp.

Nuôi thương phẩm: Mở rộng nhưng chưa đồng đều

🍌Năm 2024, sản lượng nuôi thương phẩm đạt gần 478.000 tấn, tăng 8% so với cùng kỳ. Trong đó, ngao/nghêu chiếꦏm tỷ trọng lớn nhất.

Tuy nhiên, năng suất nuôi có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương. Ở Nam Định đạt 20–5🍎5 tấn/ha, trong khi Quảng Bình chỉ đạt 2–8 tấn/ha. Mật độ thả nuôi cũng rất khác nhau: trung bình 25 con/m², nhưng có nơi lên đến 1.100 con/m². Việc nuôi mật độ cao kéo dài thời gian nuôi (có thể đến 36 tháng), làm tăng rủi ro dịch bệnh, đặc biệt trong giai đoạn chuyển mùa từ tháng 2 đến tháng 5.

Ngoài nghêu, các đối tượng khác như hàu, trai ngọc,… cũng đang được nuôi nhưng phần lớn theo phương pháp thủ công, quy mô nhỏ, công nghệ thô sơ, thiếu tính ổn định. Việc phát triển các mô hình nuôi ghép – như ốc hương kết hợp rong biển, vẹm xanh hay hải sâm – đã góp phần🐼 đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng mặt nước hiệu quả hơn và giảm thiểu rủi ro môi trường.

Chế biến và XK: Điểm sáng cần được tiếp sức

Ngành chế biến nhuyễn thể của Việt Nam hiện đã có bước tiến đáng kể. Sản phẩm ngày càng phong phú và được ưa chuộng tại thị trường nội địa như nghêu luộc đông lạnh, nghêu 1 mảnh vỏ, cồi điệp, sò đóng hộp... Một🍰 số mặt hàng đã vươn ra thị trường quốc tế.

Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tháng 5/2025 XK nhuyễn thể có vỏ (thuộc mã 0307 & 16) sang các thị trường đạt 18 triệu USD, tăng 4% so với tháng 5/2024. Lũy kế XK nhóm sản phẩm này trong 5 tháng đầu năm nay đạt 103 triệu USD, tăng 63% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, nghêu, ốc, điệp là các sản phẩm chủ lực, với giá trị XK trong 5 tháng đầu năm 2025 lầ🥂n lượt đạt: 48 triệu USD, tăng 37%, chiếm 47%; 28 triệu USD, tăng 177%, chiếm 17%; và 21 triệu USD, tăng 133% so với cùng kỳ năm 2024, chiếm 20% tỷ trọng trong tổng XK nhóm sản phẩm này.

Thách thức không nhỏ trên hành trình phát triển

Tuy có tiềm năng lớn nhưng ngành nhuyễn thể Việt Nam vẫn đối mặt nhiều khó khăn: Chất lượng giống thấp, nguy cơ suy giảm do phụ thuộc vào khai thác tự nhiên; Mật độ nuôi cao dẫn đến tình trạng chết hàng loạt, phá vỡ quy hoạch và gây áp lực lên môi trường; Biến đổi khí hậu với sự thay đổi về độ mặn, nhiệt độ, ô nhiễm nước... khiến môi trường nuôi không ổn định; Công nghệ sau thu hoạch còn lạc hậu, thủ công, d♛ẫn đến sản phẩm kém chất lượng, khó tiêu thụ; Thị trường tiêu thụ thiếu ổn định, giá cả bấp bênh, đầu ra chưa bền vững; Nghiên cứu khoa học chưa theo kịp thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu về bệnh và môi trường.

Hướng đi tương lai: Từ “làm nhiều” sang “làm hiệu quả”

Chiến lược phát triển t♕hủy sản Việt Nam đến năm 2030 định vị ngành này là “ngành kinh tế quan trọng, hiện đại, hiệu quả và bền vững”. ⛦Với nhuyễn thể, mục tiêu đến năm 2025 là đạt 480.000 tấn, và đến 2030 là 650.000 tấn, trong đó có định hướng mở rộng vùng nuôi xa bờ.

Để đạt được mục tiêu này, nên cân nhắc và đẩy mạnh: Quy hoạch lại vùng nuôi, kiểm soát bằng ༺mã số vùng và điều kiện cấp phép; Tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp, Hỗ trợ số hóa, truy xuất nguồn gốc và phát triển logistics; Đào tạo hộ nuôi để chuyển từ tư duy nhỏ lẻ sang kinh doanh chuyên nghiệꦆp; Phát triển mô hình kinh tế xanh, nuôi ghép, tuần hoàn để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên.

🌄Sản xuất nhuyễn thể ở Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn. Với lợi thế tự nhiên, kinh nghiệm dân gian và thị trường XK ngày càng rộng mở, nếu được đầu tư đúng hướng và quản lý chặt chẽ, ngành này hoàn 𒐪toàn có thể trở thành trụ cột của kinh tế biển. Tuy nhiên, để hiện thực hóa điều đó, cần một chiến lược tổng thể, bền vững, có sự đồng hành của cả nhà nước, doanh nghiệp và người nuôi. Tương lai của nhuyễn thể Việt Nam phụ thuộc vào chính cách chúng ta vượt qua những thách thức hôm nay.

Chia sẻ:
Thu Hằng
Biên tập viên
Email: thuhang@1xycn3.com
Điện thoại 024. 37715055 - ext.214

Bình luận bài viết

Trường bắt buộc không để trống
Trường bắt buộc không để trống Email sai định dạng
Trường bắt buộc không để trống Nội dung phải chứa ít nhất 10 ký tự
Tin liên quan
Tin cùng chuyên mục