Cá lóc và cá tra có những điểm tương đồng về kết cấu, hươngꦓ vị và ứng dụng ẩm thực khiến cả hai loài cá này trở nên phổ biến trong ẩm thực Trung Quốc. Cả hai loại cá này đều có thịt trắng, chắc, hương vị nhẹ và giàu protein, và có những lợi thế cạnh tranh riêng, phục vụ từng nhu cầu tiêu🎉 thụ.
Đặc điểm sinh học và nuôi trồng: Cá tra là loài cá nước ngọt, phát triển tốt trong môi trường nước có dòng chảy nhẹ, hàm lượng oxy thấp, phù hợp với nuôi thâm canh. V𒊎iệt Nam là quốc gia nuôi và XK cá tra nhiều nhất thế giới khi nông dân chủ yếu nuôi ao lớn, sử dụng thức ăn công nghiệp, và được kiểm soát nghiêm ngặt về chất lượng nước. Thời gian nuôi cá tra trung bình: 6-8 tháng để đạt trọng lượng thương phẩm 0,8-1,2 kg/con; Cá lóc phân bố rộng rãi ở sông, hồ và đồng ruộng tại Trung Quốc. Loài cá này chủ yếu được nuôi trong các ao tự nhiên hoặc hồ chứa, nuôi với mật độ vừa phải. Cá ăn thức ăn tự nhiên hoặc bổ sung bằng cá tươi hoặc thức ăn công nghiệp. Thời gian nuôi trung bình là từ 8-12 tháng để đạt trọng lượng thương phẩm 1-1,5 kg/con.
Về giá trị dinh dưỡng: Cá tra Việt Nam có hàm lượng chất béo 6-10%, đặc biệt chứa axit béo không bão hòa omega-3. Cá tra có thịt mềm, trắng, thích hợp cho chế biến đông lạnh hoặc làm sản phẩm giá trị gia tăng (phi lê, cá cắt khúc, chả cá). Sản phẩm XK cá tra chủ lực của Việt Nam là phile cá tra đông lạnh; Cá lóc Trung Quốc có hàm lượng protein cao (18-25%), ít béo hơn so với cá tra. Thịt cá l&oaꦜcute;c chắc, thơm, được ưa chuộng trong các món ăn truyền thống như cá nướng, cá om dưa cải đặc biệt là súp và lẩu, giúp tăng sự chấp nhận của người tiêu dùng nhờ giá cả phải chăng và sự quen thuộc.
Về tiềm năng XK: Cá tra Việt Nam là mặt hàng XK chủ lực, chiếm thị phần lớn trên thị trường quốc tế như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Đông Nam Á. Giá trị XK cao nhờ quy mô sản xuất lớn, tiêu chuẩn chất lượng (ASC, BAP, HACCP). Giá trung bình sản phẩm phile cá tra đông lạnh (sản phẩm chính của XK cá tra) là từ 2,5-3 USD/kg; Tại Trung Quốc, cá lóc nuôi tại Trung Quốc đang chiếm ưu thế hơn so với cá tra NK, chủ yếu phục vụ tiêu thụ nội địa và một số thị trường lân cận (Đông Á, Đông Nam Á). Giá trung bình của sản phẩm cá lóc tươi nguyên con là 4-5 USD/kg. Sả𓆏n lượng nuôi cá lóc của Trung Quốc dự kiến đạt 800.000 tấn vào năm 2024, trong đó 40% dành cho các cơ sở chế biến và phần còn lại phục vụ thị trường cá sống. Một số DN Trung Quốc hiện đang áp dụng các phương pháp chế biến cá rô phi vào sản xuất cá lóc, nhắm đến thị trường châu Á với các sản phẩm GTGT.
Cá tra Việt Nam có giá thành hợp lý, nguồn cung ổn định, phù hợp với các thị trường lớn. Tuy nhiên gi&aacutꦉe; trị XK dễ bị ảnh hưởng bởi rào cản thương mại và biến động thị trường quốc tế; Trong khi đó cá lóc Trung Quốc cũng có thịt thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao. Tuy nhiên, cá lóc có giá thành cao, hạn chế về quy mô nuôi và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ph&uꦅgrave; hợp với thị hiếu nội địa và khu vực.
Tính đến ngày 15/11/2024, Việt Nam vẫn là nguồn cung cá tra số 1 thế giới và Trung Quốc vẫn là điểm đến lớn nhất của XK cá tra Việt Nam. Theo số ꦉliệu của Hải quan Việt Nam, nửa đầu tháng 11/2024, kim ngạch XK cá tra Việt sang Trung Quốc đạt 27 triệu USD, tăng 36% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế XK cá tra sang thị trường này tính đến ngày 15/11/2024 đạt 506 triệu USD, giảm 1% so với cù🗹;ng kỳ năm 2023.
Cả cá tra Việt Nam và cá lóc Trung Quốc đều c&oac✃ute; những lợi thế riêng về chất lượng, giá trị dinh dưỡng, giá thành, thị trường tiêu thụ, phục vụ cho những nhu cầu khác nhau. Kịch bản Trung Quốc tự cung tự cấp cá lóc để th🌄ay thế dần cho cá tra NK từ Việt Nam hoàn toàn có thể nghĩ tới, và điều này sẽ là một lo ngại khi thị trường tỷ dân này đang là khách hàng lớn nhất của ngành XK cá tra Việt Nam.
Sự phát triển của cá lóc nội địa Trung Quốc đang diễn ra song song với việc nước này giảm NK cá tra từ Việt Nam. Nă🉐m 2020, lượng phi lê cá tra đông lạnh Trung Quốc NK từ Việt Nam giảm từ hơn 200.000 tấn, xuống còn 106.000 tấn năm 2023, và chỉ đạt 51.000 tấn trong 8 tháng đầu năm 2024. Từ năm 2020, khối lượng nhập khẩu cá tra liên tục giảm, với năm 2023 và 2024 ghi nhận mức nhập khẩu thấp hơn cả giai đoạn đại dịch COVID-19. Tất nhiên, bên cạnh việc sản lượng cá lóc nội địa tăng lên, có nhiều nguyên do khác khiến Trung Quốc giảm NK cá tra như nguyên nhân kinh tế nước này tăng trưởng chậm🅠 lại.
Các đối thủ cạnh tranh của cá tra Việt Nam ngày một phát triển và đang mạnh lên dần. Chỉ riêng cá tra, hiện nay nhiều quốc gia cũng đã gia nhập cuộc đua nuôi và XK cá tra. Cá tra Việt không còn “1 mình 1 chợ”, do đó cần nâng cao mạnh mẽ hơn nữa sức cạnh tranh trên thị trường bằng việc gia tăng chất lượng, hạ gi&aacut𓄧e; thành, đảm bảo tuyệt đối c&aa♏cute;c quy định về vệ sinh ATTP.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@1xycn3.com Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@1xycn3.com VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@1xycn3.com